Web 3 là gì? Tương lai của Internet, cơ hội và tiềm năng của Web 3

Web 3 là gì? Tương lai của Internet, cơ hội và tiềm năng của Web 3

Web 3 là công nghệ Internet mới nhất kết hợp giữa machine learning, artificial intelligence và blockchain để đạt được giao tiếp giữa con người trong thế giới thực. Điều thú vị là web 3.0 không chỉ cho phép các cá nhân sở hữu dữ liệu của họ mà còn được đền bù cho thời gian họ dành cho web.

Trong bài viết này mình sẽ giúp bạn hiểu về Web 3 và những điểm thú vị về xu hướng này.

Web 3 là gì?

Web 3.0 là phiên bản thứ ba của Internet kết nối dữ liệu theo cách phi tập trung (decentralized) để mang lại trải nghiệm người dùng nhanh hơn và cá nhân hóa hơn. Nó được xây dựng bằng Artificial Intelligence, Machine Learning và The Semantic Web đồng thời sử dụng công nghệ blockchain để giữ cho thông tin của an toàn và bảo mật hơn.

Decentralization (phân quyền), openness (tính mở rộng) và tiện ích người dùng đáng kinh ngạc là những đặc điểm xác định của Web 3.0.

A decentralized autonomous organization (DAO) là một mô hình tổ chức mạng máy tính tự động được kiểm soát bởi các thành viên cộng đồng của nó chứ không phải là một cơ sở duy nhất như chính phủ hoặc tổ chức tài chính , các lịch sử giao dịch được duy trì trên một blockchain để đảm bảo tính minh bạch cho tất cả mọi người cùng hoạt động trên mạng lưới đó.

Ý tưởng đằng sau việc sử dụng Semantic Web là nó hiểu và diễn giải ngữ cảnh, khái niệm của dữ liệu. Do đó, khi người dùng tìm kiếm câu trả lời, web 3.0 sẽ cung cấp kết quả chính xác và phù hợp nhất cho end-user.

Những gã khổng lồ công nghệ như Google, Facebook và Microsoft là một trong số ít các công ty hiện đang kiếm được lợi nhuận khổng lồ từ dữ liệu người dùng.

Nhưng web 3.0 sẽ thay đổi điều này, chúng cho phép tất cả chúng ta được đền bù về thời gian và dữ liệu của mình: điều này đem lại sự công bằng, phân quyền bình đẳng hơn cho cộng đồng thay vì lợi ích chỉ tập trung vào một nhóm chính.

Mọi người đã bị các công ty công nghệ khai thác – về cơ bản, bị lừa để cung cấp dữ liệu có giá trị mà không có hoặc có rất ít tiền bồi thường từ các công ty thu thập và hưởng lợi từ nó. Với web 3, mọi người nên được trả tiền cho dữ liệu họ chia sẻ.

Điều này có nghĩa là người dùng sẽ có thể bán dữ liệu của chính họ cho các nhà quảng cáo trong khi vẫn giữ quyền sở hữu và bảo mật dữ liệu. Ngoài ra, web 3 sẽ cho phép các trang web và ứng dụng sử dụng dữ liệu có ý nghĩa hơn và điều chỉnh thông tin cho từng người dùng.

Bước phát triển này của web sẽ giúp bạn tận hưởng các tương tác được cá nhân hóa với máy móc với trang web giống như khi bạn giao tiếp với bất kỳ người nào khác.

Các tính năng chính của Web 3.0

  • Open: được tạo ra bằng open-source software được phát triển bởi một cộng đồng các nhà phát triển mở và được hoàn thiện trước khi cho phép tất cả mọi người tham gia sử dụng.
  • Permissionless: bất kỳ ai, kể cả người dùng và nhà cung cấp đều có thể tham gia mà không cần sự cho phép của tổ chức trung gian mang tính kiểm soát.
  • Ubiquitous: Web 3.0 sẽ cung cấp Internet cho tất cả chúng ta, vào bất kỳ lúc nào và từ bất kỳ vị trí nào. Đến một lúc nào đó, các thiết bị kết nối Internet sẽ không còn bị giới hạn ở máy tính và điện thoại thông minh như trong web 2.0. Nhờ có IoT (Internet of Things), công nghệ sẽ cho phép phát triển vô số loại thiết bị thông minh mới.

Sự khác biệt giữa Web 1.0, Web 2.0 và Web 3.0

Trước khi đi sâu hơn vào web 3.0, chúng ta cần hiểu làm thế nào chúng ta đến được đây – thông qua web 1.0 và web 2.0.

Đây là lịch sử ngắn gọn của Internet:

  • Web 1.0 là (chỉ đọc): nơi mọi người có thể đọc thông tin được viết trên trang web.
  • Web 2.0 là (đọc-ghi): nơi mọi người có thể đọc và viết nội dung trên các trang web và ứng dụng.
  • Web 3.0 là (đọc-ghi-tương tác): nơi mọi người có thể đọc, viết và tương tác với nội dung, bao gồm đồ họa 3D, trên các trang web và ứng dụng.

Web 1.0 (1989-2005)

Web 1.0 bắt đầu vào năm 1989 và vẫn hoạt động cho đến năm 2005. Tim Berners-Lee đã phát minh ra World Wide Web vào năm 1989 khi đang làm việc tại CERN (Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire)

Các công nghệ chính bao gồm web 1.0 là:

  • HTML (Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản)
  • HTTP (Giao thức truyền siêu văn bản)
  • URL (Bộ định vị tài nguyên thống nhất)

Mục đích chính của web 1.0 là tìm kiếm thông tin. Đáng chú ý là người dùng web không thể tương tác tự do vì nó ở chế độ “only read”, vì vậy mọi cuộc thảo luận đều được thực hiện offline.

Hơn nữa, vì không có công cụ tìm kiếm nào trong giai đoạn này, nên việc điều hướng World Wide Web (WWW) gần như không đơn giản như bây giờ. Bạn cần biết địa chỉ trang web (URL) cho bất kỳ trang web nào bạn muốn truy cập.

Tuy nhiên, vào giữa những năm 1990, Netscape Navigator nổi lên như là trình duyệt web đầu tiên và đi tiên phong trong một số tính năng trình duyệt mà chúng ta vẫn sử dụng ngày nay:

  • Hiển thị một trang web trong khi đang tải nội dung
  • Sử dụng Javascript để tạo biểu mẫu và nội dung tương tác
  • Sử dụng cookie để giữ thông tin phiên

Web 2.0 (1999-2012)

Darcy DiNucci lần đầu tiên đặt ra thuật ngữ  “web 2.0” vào năm 1999 trong bài báo “Fragmented Future” của cô ấy .

Tuy nhiên, sau đó nó đã được phổ biến bởi Tim O’Reilly và Dale Dougherty vào cuối năm 2004.

Đây là giai đoạn của web mà hầu hết chúng ta đều quen thuộc. Đến năm 1999, mọi người bắt đầu có thể tương tác với nhau trên Internet thông qua các nền tảng truyền thông xã hội, blog nội dung và các dịch vụ khác. Cuối cùng, điện thoại thông minh đã được tạo ra và điện toán di động đã xuất hiện.

Mọi người bắt đầu tương tác trực tuyến trong các diễn đàn thảo luận và tạo nội dung mà những người dùng Internet khác có thể truy cập và thích, bình luận hoặc chia sẻ. Đây là thời đại của những người có ảnh hưởng (Influencer) trên Instagram, Facebook, Yelp,… Web 2.0 được quảng cáo là nền tảng để tương tác.

Web 2.0, như được định nghĩa bởi O’Reilly và những người khác từ năm 1999 đến 2004, đã chuyển thế giới khỏi các trang web tĩnh trên máy tính để bàn qua các máy chủ đắt tiền và hướng tới các cuộc gặp gỡ tương tác với nội dung do người dùng tạo.

Các công ty như Uber, Airbnb, Facebook và các nền tảng truyền thông xã hội khác đã hình thành khi Web 2.0 xuất hiện.

Các lớp đổi mới cốt lõi của Web 2.0:

  • Mobile: Sự ra đời của iPhone vào năm 2007 kết nối di động với Internet, cho phép người dùng luôn online. Mặt khác, web 2.0 cũng tự thu thập dữ liệu từ tất cả người dùng.
  • Social: Cho đến khi có sự xuất hiện của Friendster, MySpace và sau đó là Facebook vào năm 2004, Internet chủ yếu là ẩn danh. Các mạng xã hội này đã lôi kéo người dùng tham gia vào các hành động cụ thể và tạo nội dung, bao gồm các đề xuất và giới thiệu – từ việc thuyết phục mọi người chia sẻ ảnh đến các địa chỉ cho những ứng dụng Airbnb, Uber của một người lạ không quen biết từ trước.
  • Cloud: Creation và Upkeep các trang web và ứng dụng Internet. Các nhà cung cấp Cloud mới đã củng cố và tinh chỉnh phần cứng máy tính cá nhân được sản xuất hàng loạt trong một số trung tâm dữ liệu khổng lồ trên khắp thế giới. Các công ty đã có thể chuyển đổi từ việc mua và bảo trì cơ sở hạ tầng chuyên dụng tốn kém của riêng họ sang việc thuê. Hàng triệu doanh nhân được hưởng các nguồn tài nguyên chi phí thấp nhân lên khi công ty của họ phát triển.

Cái chết của Web 2.0 và nhu cầu về Web 3.0

Cuối cùng, Web 2.0 có thể sẽ trở nên lỗi thời, mọi người sẽ dùng Web 3.0.

Vì hầu hết các dịch vụ hiện đang được sử dụng đều do những gã khổng lồ như Google, Facebook, Microsoft và Amazon thống trị, nên nó đã gây ra một số phàn nàn. Khách hàng được trao quyền quản lý hạn chế đối với việc sử dụng dữ liệu của họ và điều này đã làm dấy lên nhiều cáo buộc chống lại các tập đoàn trị giá hàng tỷ đô la này và nhiều doanh nghiệp nhỏ hơn có rất nhiều trên Internet.

Các cáo buộc cho rằng các doanh nghiệp đối xử không công bằng với người dùng, lợi dụng dữ liệu của họ và đe dọa nghiêm trọng đến nền dân chủ và tự do ngôn luận.

Tuy nhiên vẫn còn quá sớm để nói về việc Web 2.0 sẽ lỗi thời, trong suốt nhiều thập kỷ qua Web 2.0 gắn liền với rất nhiều thứ và để chuyển đổi người dùng sang Web 3.0 cần ít nhất vài năm tới.

Web 3 has a long road to mass adoption

Web 3.0 (2006 trở di)

Năm 2006, thuật ngữ web 3.0 được đặt ra bởi John Markoff.

Theo nhiều cách, web 3.0 là sự trở lại với khái niệm Web ngữ nghĩa ban đầu của Berners-Lee, trong đó không cần sự chấp thuận của cơ quan trung ương và không tồn tại người kiểm soát trung tâm.

Các lớp của Web 3.0

Trong khi web 2.0 chủ yếu được thúc đẩy bởi sự ra đời của công nghệ mobile, social và cloud, thì web 3.0 được hỗ trợ bởi 3 lớp đổi mới công nghệ mới.

  • Decentralizatio: mạng dữ liệu phi tập trung cho phép các nhà tạo dữ liệu khác nhau bán hoặc trao đổi dữ liệu của họ mà không mất quyền sở hữu, rủi ro về quyền riêng tư hoặc phụ thuộc vào bên trung gian. Do đó, các mạng dữ liệu phi tập trung sẽ có một danh sách dài các nhà cung cấp dữ liệu trong ‘nền kinh tế dữ liệu’ đang phát triển.
  • Artificial Intelligence & Machine Learning: sẽ sớm được tích hợp vào Internet 3.0, cho phép blog và các nền tảng trực tuyến khác sàng lọc dữ liệu và cá nhân hóa nó theo sở thích của từng người dùng.
  • Blockchain: là nền tảng của Web 3, vì nó định nghĩa lại cấu trúc dữ liệu, các smart contract sẽ chạy trên blockchain để ghi nhận các sự thay đổi trên mạng lưới.

Web 3.0 hoạt động như thế nào?

Ý tưởng đằng sau web 3.0 là làm cho các tìm kiếm trên Internet nhanh hơn, dễ dàng hơn và hiệu quả hơn để xử lý ngay cả các câu tìm kiếm phức tạp ngay lập tức.

Trong ứng dụng web 2.0, người dùng phải tương tác với giao diện website, toàn bộ mã được lưu trữ trên các máy chủ tập trung, được gửi tới người dùng thông qua trình duyệt Internet.

Web 3.0 không có cơ sở dữ liệu tập trung. Thay vào đó, có một blockchain để xây dựng ứng dụng và được duy trì bởi các nút ẩn danh trên web.

Logic của các ứng dụng được xác định trong smart contract, được viết bởi các nhà phát triển và được triển khai trên mạng lưới phi tập trung.

Kiến trúc web 3.0

Có 3 yếu tố chính trong kiến ​​trúc tạo nên web 3.0:

  • Blockchain: những blockchain như Ethereum, Binance Chain, Polygon thường được chọn để xây dựng các dự án. Bất kỳ ai cũng có thể tham gia giao dịch trên các blockchain nhưng không có quyền sửa đổi, nó thuộc về cộng đồng và đảm bảo sự minh bạch.
  • Smart Contracts: những chương trình dược chạy trên các blockchain thường được phát triển bằng các ngôn ngữ lập trình cấp cao Solidity hoặc Vyper, để xác nhận các lệnh giao dịch thay đổi trên blockchain.
  • Front End: giao diện người dùng kết nối với các smart contract.

Ưu điểm của Web 3.0

Web 3.0 sẽ làm cho web trở nên thông minh, an toàn và minh bạch hơn, giúp giải quyết nhu cầu của con người nhiều hơn thông qua sự tương tác kết hợp với các công nghệ hiện đại phân tích các dữ liệu.

Dưới đây là những ưu điểm của Web 3.0:

Quyền riêng tư và kiểm soát dữ liệu

Người dùng cuối sẽ nhận được lợi thế đáng kể nhất của mã hóa dữ liệu để bảo vệ thông tin của họ khỏi bị tiết lộ.

Mã hóa sẽ không thể bị phá vỡ trong bất kỳ trường hợp nào. Nó sẽ ngăn các tổ chức lớn như Google và Apple kiểm soát hoặc sử dụng thông tin cá nhân của mọi người vì lợi ích riêng của họ.

Do đó, người dùng sẽ có toàn quyền sở hữu và bảo mật thông tin của họ.

Uptime

Lưu trữ dữ liệu phi tập trung sẽ đảm bảo rằng dữ liệu có thể truy cập được đối với người dùng trong mọi trường hợp. Người dùng sẽ nhận được nhiều bản sao lưu, điều này có lợi cho họ ngay cả trong trường hợp máy chủ gặp sự cố.

Ngoài ra, không có thực thể hoặc tổ chức chính phủ nào có khả năng dừng bất kỳ dịch vụ hoặc trang web nào. Do đó, khả năng bị đình chỉ tài khoản và từ chối các dịch vụ phân tán sẽ giảm đi.

Tính minh bạch

Bất kể người dùng sử dụng nền tảng blockchain nào, họ sẽ theo dõi dữ liệu của họ và kiểm tra được mọi giao dịch trên blockchain đó.

Các tổ chức phi lợi nhuận phát triển phần lớn các nền tảng blockchain, có nghĩa là họ cho phép các quy trình phát triển và thiết kế mở. Điều này sẽ giúp loại bỏ sự phụ thuộc của người dùng vào tổ chức phát triển nền tảng.

Khả năng tiếp cận dữ liệu

Dữ liệu sẽ có thể truy cập được từ mọi nơi và từ mọi thiết bị. Ý tưởng là tăng cường thu thập dữ liệu và khả năng tiếp cận dữ liệu đối với người dùng trên toàn thế giới bằng cách cho phép điện thoại thông minh và các thiết bị được kết nối khác truy cập dữ liệu trên máy tính nếu được đồng bộ hóa.

Web 3.0 sẽ tiếp tục mở rộng quy mô tương tác, từ thanh toán nhanh chóng đến cơ sở dữ liệu thông tin phong phú và chuyển dữ liệu đáng tin cậy. Điều này sẽ xảy ra vì web 3 sẽ cho tương tác với bất kỳ máy nào mà không cần thông qua người trung gian tính phí.

Không giới hạn

Vì mạng lưới blockchain có thể truy cập được cho tất cả mọi người nên người dùng có thể tạo địa chỉ của riêng họ hoặc tương tác với mạng.

Người dùng không thể bị hạn chế trên mạng lưới với những yếu tố như: giới tính, thu nhập, vị trí địa lý hoặc các yếu tố xã hội học của họ. Tính năng này sẽ giúp người dùng dễ dàng chuyển tài sản hoặc của cải của họ đến bất kỳ đâu trên thế giới một cách nhanh chóng.

Chia sẻ thông tin cá nhân

Với web 3.0, người dùng không cần tạo hồ sơ cá nhân riêng lẻ cho các nền tảng khác nhau. Một hồ sơ duy nhất sẽ hoạt động trên bất kỳ nền tảng nào và người dùng sẽ có toàn quyền sở hữu đối với bất kỳ thông tin cụ thể nào.

Nếu không có sự cho phép của người dùng, không công ty nào có thể truy cập dữ liệu của họ hoặc xác minh tính chính xác của nó. Tuy nhiên, người dùng có lựa chọn chia sẻ hồ sơ của họ và bán dữ liệu của họ cho các nhà quảng cáo hoặc thương hiệu.

Xử lý dữ liệu nâng cao

Web 3.0 có lợi cho các nhiệm vụ giải quyết vấn đề và sáng tạo tri thức chuyên sâu. Nó sử dụng trí tuệ nhân tạo để lọc ra thông tin có giá trị từ một lượng lớn dữ liệu .

Người dùng cũng sẽ được hưởng lợi từ khả năng tiến hành dự báo nhu cầu của khách hàng và dịch vụ khách hàng được cá nhân hóa, cần thiết cho các doanh nghiệp phát triển.

Nhược điểm của Web 3.0

Ngoài ra còn có một số thách thức liên quan đến việc triển khai web 3.0. Các vấn đề quản lý dữ liệu cá nhân và quản lý danh tiếng sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Yêu cầu thiết bị nâng cao

Các máy tính kém tiên tiến hơn sẽ không có khả năng hoạt động tốt khi truy cập vào Web 3.0. Các tính năng và đặc điểm của thiết bị sẽ cần được mở rộng để làm cho công nghệ có thể tiếp cận được với nhiều người hơn trên toàn cầu.

Chưa sẵn sàng để áp dụng rộng rãi

Công nghệ web 3 thông minh, hiệu quả và dễ tiếp cận hơn. Tuy nhiên, công nghệ này chưa hoàn toàn sẵn sàng để áp dụng rộng rãi. Cần nhiều công việc về tiến bộ công nghệ, luật riêng tư và sử dụng dữ liệu để đáp ứng nhu cầu của người dùng.

Nhu cầu quản lý danh tiếng sẽ tăng

Với sự sẵn có dễ dàng của thông tin người dùng và ít ẩn danh hơn thông qua web 3.0, việc quản lý danh tiếng sẽ trở thành một vấn đề đáng quan tâm hơn bao giờ hết. Nói cách khác, các thương hiệu và công ty sẽ cần phải duy trì tên tuổi, danh tiếng và hình ảnh của họ.

Các công ty sẽ cần giúp khách hàng có được thông tin tình báo quan trọng về thị trường, hiểu biết kinh doanh có giá trị, nội dung hấp dẫn và tiếp thị qua internet tiên tiến để vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh. Do đó, quản lý danh tiếng sẽ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Tại sao Web 3.0 lại quan trọng cho tương lai

Ít phụ thuộc hơn vào các kho lưu trữ tập trung: Web 3.0 sẽ cố gắng biến Internet thành một nguồn đa dạng để tránh bị tin tặc, rò rỉ và phụ thuộc vào các kho lưu trữ tập trung. Sử dụng sự khan hiếm dữ liệu có thể kiểm chứng và tài sản kỹ thuật số được mã hóa, sẽ có khả năng người dùng sở hữu dữ liệu và dấu vết kỹ thuật số của riêng họ. Không có nền tảng nào chịu trách nhiệm về việc sử dụng dữ liệu.

Tương tác được cá nhân hóa nhiều hơn: Web 3.0 sẽ ngày càng trở nên quan trọng từ năm 2022 trở đi, vì hầu hết người dùng tiếp tục ưu tiên các trải nghiệm duyệt web được cá nhân hóa và tùy chỉnh trên web.

Hỗ trợ tìm kiếm tốt hơn do AI cung cấp: Sẽ có nhu cầu ngày càng tăng đối với các trợ lý tìm kiếm kỹ thuật số được nhân bản hóa, thông minh hơn, phổ biến hơn và được hỗ trợ bởi ngữ nghĩa, chuỗi khối và AI.

Giảm sự phụ thuộc vào các bên trung gian: giúp loại bỏ các doanh nghiệp trung gian, loại bỏ các bên trung gian trục lợi và mang lại giá trị này trực tiếp cho khách hàng và nhà cung cấp trong mạng lưới. Người dùng mạng sẽ làm việc cùng nhau để giải quyết các vấn đề khó kiểm soát trước đây bằng cách sở hữu và quản lý lẫn nhau đối với các cấu trúc thông minh phi tập trung mới này.

Kết nối peer-to-peer: sự kết nối giữa các thành viên và tổ chức ngang hàng để phù hợp với quản trị, tương tác hơn. Với kết nối ngang hàng, con người, doanh nghiệp và máy móc sẽ có thể chia sẻ nhiều dữ liệu hơn trong khi vẫn duy trì quyền riêng tư và bảo mật cao hơn.

Nâng cao niềm tin: Với kiến ​​thức về thế hệ Internet tiếp theo, chúng ta có thể giảm sự phụ thuộc vào các nền tảng riêng lẻ đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh trong tương lai.

Ví dụ về các ứng dụng Web 3.0

Dưới đây là một số ví dụ phổ biến về các ứng dụng web 3.0 giải thích phạm vi áp dụng của nó:

Siri của Apple là một ví dụ hoàn hảo về phần mềm nhận dạng giọng nói như một thành phần chính của web 3.0. Sử dụng công nghệ này, Siri và các trợ lý cá nhân khác giao tiếp, chia sẻ thông tin (thông qua các khối được liên kết) và cung cấp cho người dùng kết quả tìm kiếm hữu ích hơn cho mọi truy vấn có ý nghĩa, bao gồm cách thức, lý do và nội dung.

Wolfram Alpha là một nền tảng trí tuệ điện toán hiện sử dụng web 3. Nền tảng này có thể tính toán câu trả lời của người dùng từ các lĩnh vực khác nhau như toán học, dinh dưỡng và khoa học. Nó nhanh chóng kết nối với các ứng dụng khác để thu thập thông tin từ cơ sở dữ liệu của họ và hợp lý hóa thông tin cho người dùng cuối. Kết quả là, giờ đây nó nhanh hơn và cung cấp kết quả chính xác hơn so với trước đây với web 2.0. Siri là người dùng thường xuyên của Wolfram Alpha.

Mối liên hệ giữa Web 3 và Blockchain

Nói một cách đơn giản, blockchain là công nghệ (cùng với các công nghệ khác như IoT và AI) đằng sau web 3.0. Cụ thể hơn, blockchain là nền tảng của web 3, vì nó xác định lại cấu trúc dữ liệu trong phần phụ trợ của web ngữ nghĩa.

Blockchain là một cỗ máy trạng thái phi tập trung triển khai các hợp đồng thông minh (smart contracts). Các hợp đồng thông minh này xác định logic của một ứng dụng cho web 3.0. Vì vậy, bất kỳ ai muốn xây dựng ứng dụng chuỗi khối đều cần triển khai mã ứng dụng của họ trên máy trạng thái dùng chung.

Web 3.0 và Digital Marketing

Dưới đây là một số cách mà web 3.0 sẽ có tác động đến Digital Marketing:

Ít tập trung hơn vào từ khóa : Trong web 3.0, sẽ ít tập trung hơn vào việc tối ưu hóa từ khóa. Thay vì tập trung vào từ khóa, các nhà tiếp thị phải tạo ra nội dung đa phương tiện hiểu được nhu cầu và truy vấn của người dùng.

Giảm các truy vấn “gần tôi” : Các truy vấn “gần tôi” sẽ giảm mạnh vì mọi người biết rằng kết quả sẽ tự động liên quan đến vị trí của họ. Do đó, họ đã ngừng thêm “gần tôi” hoặc mã zip vào tìm kiếm của mình. Web 3.0 tự động xem xét vị trí địa lý và dữ liệu hành vi của người dùng và hiển thị các kết quả có liên quan phù hợp với sở thích của họ.

Tăng tìm kiếm bằng giọng nói : Web 3.0 sẽ dẫn đến sự gia tăng tìm kiếm bằng giọng nói và mọi người sẽ bắt đầu sử dụng trợ lý kỹ thuật số nhiều hơn nữa. Do đó, chìa khóa sẽ là tối ưu hóa cho các truy vấn dài và cụ thể hơn.

Ý nghĩa hơn đối với Microdata và Schema : Hiểu dữ liệu quan trọng hơn trên web 3.0. Tất cả các nhà tiếp thị nên nắm lấy đánh dấu Microdata và Schema để luôn dẫn đầu trong trò chơi vì chúng giúp ứng dụng web 3 hiểu khái niệm, bối cảnh và cấu trúc dữ liệu. Với sự hiểu biết rõ ràng, nó sẽ đảm bảo rằng nội dung của bạn được hiển thị cho người dùng cho các truy vấn có liên quan.

Sự tăng trưởng của tối ưu hóa câu hỏi-từ khóa, tối ưu hóa đoạn trích nổi bật và phần PAA (Mọi người cũng hỏi) : Web 3.0 sẽ tăng cường tối ưu hóa từ khóa câu hỏi, tối ưu hóa đoạn trích nổi bật và tối ưu hóa PAA. Các nhà tiếp thị phải sản xuất nội dung trả lời câu hỏi của người dùng một cách chính xác.

Sự trỗi dậy của các trải nghiệm siêu cá nhân hóa : Web 3.0 cũng sẽ thay thế ý tưởng về các trang web tĩnh cũ bằng các trải nghiệm siêu cá nhân hóa giúp thay đổi thông điệp và định dạng phương tiện của chúng cho mỗi khách truy cập. Nói chuyện với các công cụ tìm kiếm bằng ngôn ngữ tự nhiên và tìm kiếm thông tin chính xác mang lại trải nghiệm người dùng liền mạch; khả năng học hỏi và suy nghĩ của web 3.0 sẽ nhấn mạnh trải nghiệm phong phú này cho người dùng.

Web 3.0 và Metaverse

Metaverse là một từ thông dụng kể từ khi Facebook gần đây công bố tên mới ‘Meta’ . Ý tưởng là để giới thiệu rằng công ty đang tiến nhanh tới một Metaverse. Tuy nhiên, Metaverse vẫn chưa trở thành hiện thực, nhưng sẽ sớm có thể là bước phát triển tiếp theo của Internet.

Metaverse thường đề cập đến môi trường thế giới ảo được chia sẻ hoặc môi trường do máy tính tạo ra mà người dùng có thể truy cập được qua Internet. Đó là một không gian kỹ thuật số được thiết kế giống như thật hơn bằng cách sử dụng “thực tế mở rộng”, sự kết hợp giữa thực tế tăng cường, ảo và hỗn hợp.

Hiện tại, mọi người tương tác với nhau thông qua các nền tảng truyền thông xã hội hoặc bằng cách sử dụng các ứng dụng nhắn tin. Trong không gian ảo, người dùng sẽ có “nhân vật” riêng có thể đi lại và tương tác với những người dùng khác. Họ có thể giao tiếp với nhau thông qua hình đại diện, tin nhắn văn bản, âm thanh, video âm nhạc, trò chơi điện tử, v.v.

Điều này có nghĩa là mọi người sẽ có trải nghiệm 3D trên Internet. Họ có thể tương tác, chơi, làm việc hoặc tham gia vào môi trường kỹ thuật số như thể họ đang trải nghiệm thực tế thay vì chỉ xem nội dung.

Vai trò của web 3.0 là rất quan trọng trong việc biến Metaverse thành hiện thực, đặc biệt nếu nó sử dụng công nghệ chuỗi khối. Nói cách khác, web 3 sẽ cho phép thế giới ảo tồn tại trực tuyến và có thể truy cập thông qua trình duyệt web.

Kết

Web 3 vẫn còn rất mới, có thể sẽ mất tới ít nhất 3 năm để mọi người có thể biết và tận 5 năm để có thể tiến vào quá trình “mass adoption”. Sẽ có nhiều doanh nghiệp sẽ chuyển mình sang mô hình của Web 3 tuy nhiên không phải sự thay đổi nào cũng đem lại hiệu quả, nhất là khi mọi người chưa thực sự hiểu về chúng.

Chắc chắn web 3 sẽ thay đổi nhiều thứ nhưng sẽ có các rào cản về mặt chi phí, mức độ phù hợp và thời điểm để phát triển.

Đối với các lĩnh vực liên quan đến digital product hoặc financial sẽ rất phù hợp với việc phát triển bằng web 3, còn các ngành hàng bán lẻ các sản phẩm vật lý ở thời điểm này còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam hay các khu vực ĐNÁ nói chung.

Trên thế giới hiện tại web 3 đang được phát triển mạnh trong các lĩnh vực như gaming, defi,… chỉ trong 2022 đã có hàng chục tỉ $ để đầu tư vào các hạng mục này đã cho thấy những công ty lớn có tham vọng, đặt niềm tin vào web 3 sẽ mở ra một kỷ nguyên mới.

Ở giai đoạn 2023-2025 rất thích hợp để đầu tư vào web 3, cách thức đầu tư cũng sẽ thú vị hơn trước đây nhiều lần.

guest

0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments